Giáo dục giới tính là một phần trong chương
trình giáo dục về sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục. Chính nó là cơ
sở sâu xa cho việc xây dựng tình yêu, tình vợ chồng sau này. Những bài
học về đã và đang đi vào thời khóa biểu của học sinh nhiều nước, hoàn
toàn bình đẳng bên cạnh các giờ học các môn học khác.
Ở Việt Nam những bài giảng về giáo dục giới tính như thế vẫn còn lúng túng, ngần ngại. Việc tư vấn hầu như không có hoặc
chính giáo viên cũng có những “né tránh” vấn đề này, chương trình dạy
theo kiểu lồng ghép qua các môn khác như: văn học, giáo dục công dân,
sinh học,....Vậy vì sao phải giáo dục giới tính cho trẻ, khi nào cần trang bị những kiến thức này cho trẻ và hậu quả của việc thiếu hiểu biết về giới tính sẽ ra sao?
Hệ lụy do thiếu hiểu biết:
Một số hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra từ việc thiếu hiểu biết về giới tính:
Mang thai khi chưa đến tuổi: đó là nỗi kinh hoàng với các em gái vì
các em chưa chuẩn bị tâm lý làm mẹ và nuôi con, có những em còn đang
ngồi trên ghế nhà trường và dưới sự đùm bọc của bố mẹ thì làm sao có đủ
tài chính và kinh nghiệm trong việc làm mẹ. Khi đã lỡ có thai, các em
đứng trước sự lựa chọn khắc nghiệt: giữ thai hay phá thai để tránh tai
tiếng. Việc có thai khi tuổi càng ít thì nguy cơ tiềm ẩn những biến
chứng lúc sinh đẻ càng cao, các em chưa đạt được sự trưởng thành đầy đủ
về mặt thể chất với xương chậu chưa đủ độ rộng để đầu thai nhi xổ, cuộc
chuyển dạ kéo dài có thể gây chảy máu, trẻ bị ngạt và nguy cơ tử vong
cho cả mẹ và con rất cao. Viễn cảnh đen tối, bế tắc của việc làm mẹ “bất
đắc dĩ” này là sự thiếu hỗ trợ về mặt tình cảm (bạn tình bỏ rơi, đôi
khi là cả gia đình ruồng rẫy) và thiếu kinh tế để nuôi con. Một số em
mang thai có thể đi đến hôn nhân một cách miễn cưỡng nhưng những cuộc
hôn nhân này thường không mang lại hạnh phúc hoặc tan vỡ sau đó.
Nạo phá thai không an toàn: có nghĩa là khi thủ thuật này được thực
hiện bởi những người không có nhiều kinh nghiệm và tại những cơ sở không
có điều kiện tốt nên dễ để lại những hậu quả đáng tiếc. Thực tế cho
thấy khi có thai các em thường không dám đến các cơ sở y tế tốt để phá
vì sợ gặp người quen, mà thường đến chui ở những nơi thiếu thốn trang
thiết bị, máy móc và con người. Việc nạo phá thai có thể để lại những
nguy cơ rình rập như: thủng tử cung, nhiễm khuẩn huyết, chảy máu, viêm
tắc vòi trứng gây vô sinh.
Các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STDs - Sexually Transmitted Disease):
Thanh thiếu niên có
nguy cơ cao bị lây nhiễm các bệnh STDs vì tỷ lệ trẻ bước vào độ tuổi
hoạt động tình dục sớm gia tăng và ít sử dụng các biện pháp phòng tránh.
Nguy cơ bao trùm quan trọng để bị nhiễm bệnh là một người có nhiều bạn
tình hoặc có bạn tình đã từng quan hệ với nhiều người. Các em gái bị bóc
lột hoặc lạm dụng tình dục có nguy cơ nhiễm bệnh cao hơn.
Lạm dụng tình dục: là cụm từ trước đây dùng để chỉ hành vi tình dục
của người lớn với trẻ em hay trẻ vị thành niên nhưng nó được hiểu là mọi
hành vi tình dục không được xã hội văn minh chấp nhận vì phi đạo đức,
vi phạm thuần phong mỹ tục của cộng đồng. Lạm dụng tình dục bao gồm
những ép buộc tình dục bằng những tác động tâm lý (như đe dọa, dùng
quyền uy), dùng sức mạnh hay kinh tế hứa hẹn, lừa gạt để thỏa mãn ý muốn
tình dục. Nạn nhân bị lạm dụng tình dục từ lúc nhỏ có thể dẫn đến rối
loạn bản sắc giới tính và những hành vi tình dục bất thường sau này như
nghiện tình dục hay chán tình dục. Mất lòng tin và sống cam chịu, coi
mình không còn giá trị, sống buông thả là những đặc điểm tâm lý thường
thấy ở những trẻ bị lạm dụng tình dục. Chỉ một lần bị lạm dụng tình dục
cũng đủ gây ra những ảnh hưởng tâm lý kéo dài, nhất là nếu sau đó trẻ
không nhận được sự hỗ trợ thỏa đáng.
Khi nào nên bắt đầu giáo dục giới tính?
Đứng trước những hậu quả nặng nề trên chúng ta đặt ra câu hỏi nên
giáo dục giới tính cho trẻ từ khi nào thì thích hợp? Nhiều ông bố bà mẹ
biết rằng không nên để con cái mò mẫm tìm hiểu lấy chuyện tình dục, song
lại không biết cách nói chuyện cũng như chỉ bảo cho con mình sao cho
đúng. Trẻ em hiện nay trưởng thành sớm hơn trước nhiều. Một đứa trẻ lên 3
- 4 tuổi đã biết ý thức được bộ phận sinh dục của cơ thể và sự khác
biệt giới tính. Lên 5, 6 tuổi chúng đã có những thắc mắc như “vì sao lại
có em bé” và “trẻ được sinh ra ở đâu?”, trong khi chơi chúng cũng ưu
tiên chơi với các bạn cùng giới hơn. Khi đó nếu không có những kỹ năng
nhất định bạn sẽ thấy bối rối khi trả lời những thắc mắc của con mình.
Thay vì câu trả lời bạn có thể hỏi lại trẻ “theo con nghĩ thì em bé được
sinh ra như thế nào?” Việc lắng nghe trẻ nói sẽ giúp bạn biết được nhận
thức của con đang ở mức độ nào, đôi khi chỉ cần một câu trả lời đơn
giản cũng khiến trẻ hài lòng. Nếu như trẻ đã biết đọc, biết viết, chúng
ta có thể mua một số sách về cơ thể con người, có tranh minh họa sẽ giúp
cho việc giải thích của chúng ta được dễ dàng hơn. Khi học hết tiểu học
trẻ phải được trang bị những kiến thức như sự khác nhau về giới tính
giữa hai giới, trẻ em được sinh ra từ đâu. Có những trẻ dậy thì sớm, học
đến lớp 5 các em đã bắt đầu có hiện tượng kinh nguyệt. Vì vậy trước đó
trẻ cần được biết đây là hiện tượng sinh lý bình thường của người con
gái khi bước vào tuổi dậy thì để tránh những hoang mang, bỡ ngỡ. Đồng
thời trẻ cần được cung cấp những kiến thức về vệ sinh, cũng như khả năng
thụ thai, các biện pháp phòng tránh thai và tránh bị xâm phạm tình dục.
Mahatma Gandhi đã từng nói: “Không có một ngôi trường nào tốt bằng
gia đình và cũng không có người thầy nào tốt như cha mẹ”. Vì thế việc
giáo dục giới tính cho trẻ nên được bắt đầu từ khi trẻ còn nhỏ, khi
những thắc mắc về giới tính mới hình thành. Tùy vào từng độ tuổi, đối
tượng và tính cách của mỗi trẻ mà chúng ta có cách nói chuyện, chỉ bảo.
Cha mẹ cần biết cách chia sẻ những thắc mắc của con cái cũng như là chỗ
dựa tinh thần cho con. Hành vi đánh đập, quát mắng con chỉ làm bạn xa
con hơn và đẩy con đi sâu hơn vào những sai lầm.
Có một chủ đề đã được nêu ra: “Các em tuổi học trò mang thai vì thiếu
hiểu biết về sinh lý và các biện pháp phòng tránh thai. Vậy hãy giúp
các em hiểu rõ hơn và giải tỏa sự tò mò về sinh lý để các em phòng tránh
thai hiệu quả, tránh những hậu quả xấu tương tự”. Ngay lập tức có ý
kiến cho rằng làm như vậy có khác nào “vẽ đường cho hươu chạy”. Ý kiến
này khá thuyết phục các giới ngoài ngành y tế, họ cho rằng trẻ sẽ sớm
biết và sẽ học theo những gì mình được học. Vì thế họ không bao giờ trao
đổi với các em những vấn đề này hoặc là trả lời qua loa chiếu lệ. Họ
không nghĩ rằng khi trẻ không được giải đáp thỏa đáng, chúng sẽ tăng
tính tò mò, cũng vì tự mình tìm hiểu để thỏa mãn tính tò mò đó mà không
ít những câu chuyện đau lòng đã xảy ra khi trẻ bước vào tình yêu, tình
dục sớm. Thực chất, các vấn đề này trong nhà trường nên có những cuộc
giao lưu, thảo luận công khai để giúp trẻ nhận ra mặt trái của vấn đề,
tránh những hậu quả đáng tiếc xảy ra.
Trẻ em như một nhành cây non dễ uốn. Những người mà trẻ yêu quí và
tiếp xúc thường xuyên trong gia đình có ảnh hưởng đặc biệt với chúng.
Những ấn tượng trong tuổi thơ sẽ in sâu vào nhân cách của đứa trẻ. Những
hành vi tích cực hoặc tiêu cực của con người ở tuổi trưởng thành có thể
được lý giải bằng những ảnh hưởng, ấn tượng từ thời thơ ấu. Trẻ em
trong xã hội hiện đại sớm phát triển về nhận thức hơn, trong đó có nhận
thức về giới tính, bản năng tình dục cũng hình thành sớm hơn thế hệ
trước. Nhưng sự chín chắn về mặt xã hội và tâm lý thì chậm hơn thế hệ
trước. Ở đây nói tới sự chín chắn là sự trưởng thành trong suy nghĩ và
hành động chứ không nói tới sự hiểu biết, vì rõ ràng rằng thế hệ ngày
nay tiếp xúc với nhiều nguồn thông tin hơn, chỉ cần một cái click chuột
máy tính là có thể thâu nhận được hàng loạt thông tin. Nhưng cũng chính
biết nhiều, biết sớm đó và không được trang bị những kiến thức từ trước
đã thúc đẩy tính tò mò của trẻ, chúng dễ bị sức ép của bản năng thôi
thúc và chuyện tình dục cũng sớm xảy ra. Vì thế việc giáo dục tâm lý
giới tính nên song hành cùng sự phát triển sinh lý.
Bác sĩ: Nguyễn Thị Hương
.
.
No comments:
Post a Comment